Xây dựng nền giáo dục mở: Xu hướng phát triển tất yếu trong bối cảnh hiện nay
TS. Nguyễn Thị Hồng Hạnh - Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội
Giáo dục mở trên thế giới và tại Việt Nam
Trên thế giới, thuật ngữ giáo dục mở đã xuất hiện từ đầu thế kỷ XX và phát triển mạnh mẽ vào thập niên 70. Vào thời điểm này, nhiều nhà giáo dục cảm thấy sự hạn chế của giáo dục truyền thống, muốn thay đổi, để mọi người dễ tiếp cận hơn với giáo dục. Trên nền tảng quan điểm đó, trường đại học mở đầu tiên trên thế giới đã ra đời vào năm 1969 tại Anh (UK OU). Đại học này hoạt động dựa trên 4 nguyên tắc cốt lõi: Mở cho người học, mở về địa điểm, mở về phương pháp và mở về ý tưởng. Từ mô hình của UK OU đến nay, trên thế giới có hơn 50 trường đại học mở lớn nhất, đặc biệt ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương như: Đại học mở Trung Quốc thành lập năm 1979, hiện có 3,59 triệu sinh viên (trong đó gồm có: 200 nghìn nông dân, 100 nghìn quân nhân và nhân viên quốc phòng, 600 người khuyết tật); Đại học mở Indira Gandhi (Ấn Độ) thành lập năm 1985, với khoảng 3,5 triệu sinh viên; Đại học Anadolu (Thổ Nhĩ Kỳ) thành lập năm 1958 với khoảng 2 triệu sinh viên… Mô hình này hiện nay không chỉ phát triển ở bậc đại học mà đã mở rộng ra các bậc học khác, đặc biệt cho những chương trình không cần văn bằng.
Ở nước ta, Viện Đại học Mở Hà Nội được thành lập vào ngày 3/11/1993. Viện có 12 ngành với 17 chuyên ngành và nhiều loại hình đào tạo khác nhau: Tập trung, chính quy, vừa học vừa làm, liên thông, song song hai văn bằng, đào tạo từ xa… Năm 2015-2016, quy mô đào tạo của Viện là 32.885 sinh viên (trong đó đào tạo chính quy là 11.299, từ xa là 20.287, các hệ khác là 1.299 sinh viên). Trải qua 25 năm hoạt động, Viện đã đào tạo và cung cấp cho xã hội trên 150.000 cử nhân, kỹ sư, kiến trúc sư, thạc sỹ. Với phương thức đào tạo từ xa, Viện Đại học mở đã mang lại cơ hội học tập đến với nhiều người dân trên mọi miền tổ quốc, từ đồng bằng đến miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa thuộc mọi thành phần kinh tế, đặc biệt cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, những người khuyết tật…
Trước Viện Đại học Mở Hà Nội, Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh đã được thành lập và đi vào hoạt động từ 1990. Đây là cơ sở đào tạo tiên phong trong đào tạo từ xa ở phía Nam và là một trong những trường đại học đầu tiên triển khai phương thức đào tạo trực tuyến. Theo thống kê, năm 2017, trường có 457 giảng viên, trong đó có 3 giáo sư, 17 phó giáo sư, 108 tiến sĩ, 288 thạc sĩ và 41 giảng viên có trình độ đại học. Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh hiện có hơn 1 nghìn học viên sau đại học, hơn 11 nghìn sinh viên hệ chính quy và hơn 20 nghìn sinh viên hệ không chính quy.
Những vấn đề đặt ra với giáo dục mở ở Việt Nam
Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, đòi hỏi nền giáo dục phải đổi mới nhanh và mạnh hơn nữa. Một trong những hướng đổi mới cần quan tâm đó là phát triển giáo dục theo hướng mở. Giáo dục mở được hiểu là mở rộng khả năng tiếp cận giáo dục cho mọi người so với giáo dục chính quy thông thường qua nhiều phương thức đào tạo, bằng nhiều nguồn tư liệu giáo dục mở, môi trường học tập khác nhau. Từ “mở” trong giáo dục mở để nói lên ý tưởng gạt bỏ bớt các rào cản hạn chế cơ hội tham dự của người học cũng như công nhận kết quả học tập tại cơ sở giáo dục… Như vậy, giáo dục mở có tầm quan trọng rất lớn đối với sự phát triển của xã hội, qua đó, tri thức, các kỹ năng, các ý tưởng và sự hiểu biết được phổ biến nhanh chóng và hiệu quả nhất.
Xuất phát từ tầm quan trọng trên, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã khơi nguồn đổi mới và mở ra cơ hội mới cho sự phát triển giáo dục Việt Nam khởi đầu bằng những đổi mới tư duy về quản lý. Mục tiêu tổng quát của Nghị quyết số 29-NQ/TW là “Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”. Nghị quyết số 29-NQ/TW cũng xác định quan điểm chỉ đạo là: “Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo dục và đào tạo”.
(Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam, năm 2012, cả nước có 21 trường đại học đăng ký tuyển sinh đào tạo từ xa, tuy nhiên quy mô đào tạo từ xa đang dần có xu hướng giảm. Năm 2016 chỉ còn 17 trường đại học đăng ký chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo từ xa; quy mô sinh viên đăng ký tham gia giảm đáng kể, từ 161.047 sinh viên (tháng 10/2012), xuống còn 70.425 sinh viên (tháng 10/2016)).
Trên cơ sở chủ trương và định hướng của Đảng và Nhà nước, thời gian qua, các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam đã có những quan tâm nhất định đến mô hình giáo dục mở truyền thống. Tuy nhiên, việc thực sự áp dụng giáo dục mở theo nghĩa rộng với việc chia sẻ học liệu mở một cách rộng rãi cũng như áp dụng hoàn toàn hình thức đào tạo trực tuyến chưa được áp dụng ở Việt Nam. Ngay cả giáo dục từ xa hiện nay cũng đang gặp nhiều khó khăn, thách thức trong việc triển khai. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2012, cả nước có 21 trường đại học đăng ký tuyển sinh đào tạo từ xa, nhưng quy mô đào tạo từ xa đang dần có xu hướng giảm mạnh. Cụ thể, năm 2016, giảm từ 21 xuống chỉ còn 17 trường đại học đăng ký chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo từ xa với 90 chương trình đào tạo; quy mô sinh viên đăng ký tham gia các ngành học theo đó cũng đã giảm đáng kể, giảm từ 161.047 sinh viên (tháng 10/2012), xuống chỉ còn 70.425 sinh viên (tháng 10/2016).
Thực tế cho thấy, mặc dù việc mở rộng giáo dục mở tại các cơ sở giáo dục đại học đã có những chuyển biến nhất định, song kết quả chưa như kỳ vọng, bởi những rào cản, thách thức sau:
Thứ nhất, về định kiến xã hội. Trong xã hội Việt Nam hiện nay vẫn còn tâm lý những gì có chi phí thấp hay dễ dàng có được thì đều không có chất lượng cao. Vẫn còn khá nhiều người sẵn sàng bỏ số tiền lớn để mua tài liệu trong khi chỉ với chút thời gian, công sức tìm kiếm trên mạng internet, họ có thể tải được những tài liệu hoàn toàn miễn phí…
Thứ hai, về rào cản ngôn ngữ: Các khóa học cung cấp bằng tiếng Việt với chất lượng cao còn ít, trong khi nhu cầu đối với các khóa học chất lượng là tương đối cao. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết các khóa học mở trên mạng đều được cung cấp bằng tiếng Anh, điều này gây nhiều khó khăn đối với việc tìm kiếm và tiếp thu kiến thức của người học.
Thứ ba, về bản quyền: Nội dung của các khóa học do một trường đại học đưa lên mạng có thể bị sử dụng vào mục đích kinh tế dưới nhiều hình thức khác nhau. Nghiêm trọng hơn là kinh nghiệm, thành tựu nghiên cứu khoa học kỹ thuật có thể bị đánh cắp và thương mại hóa, gây thiệt hại về mặt kinh tế cho nhà trường.
Thứ tư, công nhận bằng cấp: Việc Chính phủ chưa công nhận bằng cấp của các chương trình trực tuyến sẽ gây cản trở cho học viên và sự phát triển mô hình giáo dục mở. Nguyên nhân chính được đưa ra là do vấn đề đảm bảo chất lượng của các chương trình học trực tuyến chưa đồng nhất và được cung cấp bởi nhiều đơn vị khác nhau, không hẳn là của các cơ sở giáo dục đại học hàng đầu.
Ngoài các rào cản, thách thức trên thì vấn đề tài chính cũng gây nên những hạn chế trong việc phát triển mô hình giáo dục mở của các cơ sở giáo dục. Tài chính có thể coi là cơ sở quan trọng nhất quyết định đến việc có thể triển khai và duy trì giáo dục mở, tuy nhiên, trong bối cảnh các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam đang đẩy mạnh tự chủ tài chính, việc có một nguồn tài chính ổn định để hỗ trợ giáo dục mở là không hề đơn giản.
Trong thực tế, chỉ có những cơ sở giáo dục đại học lớn mới có thể theo đuổi mô hình giáo dục mở, bởi các cơ sở này có nguồn tài chính đa dạng, từ nguồn thu học phí, hợp tác nghiên cứu với doanh nghiệp, đóng góp từ cựu sinh viên hay thương mại hóa các phát minh, sáng chế. Bên cạnh đó, còn có nguồn trợ cấp từ Chính phủ, các cơ quan ban ngành hay các tổ chức khu vực và thế giới cho nghiên cứu và phát triển khoa học. Còn với các trường đại học có quy mô nhỏ, nguồn thu tài chính không đa dạng và thiếu ổn định sẽ rất khó khăn trong triển khai và duy trì giáo dục mở.
Đề xuất, khuyến nghị phát triển giáo dục mở
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang làm thay đổi thế giới từng ngày. Nền giáo dục Việt Nam cần có sự thay đổi mạnh mẽ theo xu hướng của thời đại, đó là hướng tới nhân rộng và phát triển các mô hình giáo dục mở. Để có thể phát triển hiệu quả mô hình này, trong thời gian tới cần chú trọng một số vấn đề sau:
Thứ nhất, xây dựng nền giáo dục mở Việt Nam tiên tiến theo yêu cầu đặt ra của Nghị quyết số 29-NQ/TW và hướng đến tiệm cận nền giáo dục mở tiên tiến của các nước trong khu vực. Muốn vậy, Nhà nước cần sớm ban hành chính sách phát triển giáo dục mở phù hợp, có lộ trình cụ thể, tạo nền tảng pháp lý, cơ sở thực tiễn để thực hiện và phát triển mô hình giáo dục mở.
Thứ hai, phát triển nền giáo dục mở phù hợp quy luật phát triển của đất nước, theo định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa. Muốn vậy, quá trình đổi mới thể chế và tái cơ cấu cần thực hiện một cách toàn diện, từ cơ chế vận hành quản lý, đầu tư tài chính, đất đai, cơ sở vật chất, thuế cho đến cơ chế kiểm định, thanh tra, giám sát chất lượng giáo dục. Cùng với đó, định hướng xóa bỏ cơ chế bao cấp cho các trường và quan điểm phân biệt bằng cấp của trường công – trường tư.
Thứ ba, phát triển nền giáo dục mở bình đẳng, tạo cơ hội học tập cho tất cả mọi người, khơi dậy tài năng của người học. Để có thể thực hiện điều này, cần xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền giáo dục mở, cụ thể là xây thêm trường học, trung tâm học tập cộng đồng ở những nơi đông dân cư, vùng sâu, vùng xa; Xây dựng và phát triển hệ thống công nghệ thông tin hỗ trợ việc học tập và tra cứu…
Thứ tư, thiết kế nền giáo dục mở linh hoạt, liên thông với môi trường và phù hợp với xu thế thời đại. Trước hết, cần linh hoạt trong xây dựng chương trình học tập sao cho phù hợp với ngành nghề đào tạo; khuyến khích người học liên thông, cấp chứng chỉ cho người học đối với từng trình độ và người học đạt được.
Thứ năm, thiết kế nền giáo dục mở dựa trên nền tảng triết lý giáo dục Việt Nam. Nghĩa là hình thành một nền giáo dục mở trên cơ sở 2 mục tiêu sau: Phải đào tạo mỗi người học vừa thành con người xã hội, vừa thành con người cá nhân. Tổng hòa lại hai mục tiêu sẽ là phẩm chất và năng lực người học cần đạt được.
Thứ sáu, thiết kế nền giáo dục mở phù hợp với hoàn cảnh của người học và thực tiễn phát triển của đất nước, như vậy nền giáo dục mới có thể tồn tại và phát triển.
Thứ bảy, hình thành kho tài nguyên và tài liệu giáo dục mở, nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, giáo viên. Song song với đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng cần chú trọng các chương trình huấn luyện về phương pháp giảng dạy; tiếp tục nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm từ các mô hình giáo dục mở phát triển, rút ra bài học kinh nghiệm để vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết số 02 – NQ/HNTW ngày 14/12/1996 Khóa VII về định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000;
2. Kết luận số 51-KL/TW của Hội nghị lần thứ 6 BCHTW khóa XI ngày 29/10/2012 về Đề án "Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế";
3. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo;
4. Vũ Minh Giang (2018), Giáo dục Việt Nam trước đòi hỏi đổi mới căn bản và toàn diện, Đại học Quốc gia Hà Nội;
5. Mai Đan (2018), Hệ thống giáo dục mở phải gắn với tự chủ, Thời báo Tài chính Việt Nam;
6. Lê Ngọc Trà (2008), Một số vấn đề của giáo dục Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.